Tin tức Sự kiện

PHÁT TRIỂN CÁC YẾU TỐ NỀN TẢNG ĐỂ MỞ RỘNG TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG GIAI ĐOẠN 2020 – 2025 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030

Tài chính toàn diện (TCTD) được xem là một trụ cột quan trọng của tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo bền vững, góp phần huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội của một quốc gia. Với vai trò là cầu nối triển khai cơ chế chính sách và hiệu quả điều hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước TP Đà Nẵng đã chủ động tổ chức thực hiện các mục tiêu mà Chiến lược TCTD quốc gia đã đề ra, trong đó xác định các yếu tố nền tảng để mở rộng TCTD trên địa bàn TP Đà Nẵng giai đoạn 2020 – 2025 và tầm nhìn đến năm 2030.

1. Hệ thống ngân hàng TP. Đà Nẵng tập trung vào 4 yếu tố chính để mở rộng và phát triển TCTD trên địa bàn

Thứ nhất, phát triển mạng lưới hoạt động, đa dạng các tổ chức cung ứng, kênh phân phối hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp tăng khả năng tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính - ngân hàng.

Hệ thống mạng lưới các tổ chức tín dụng trên địa bàn TP. Đà Nẵng phát triển rộng khắp trong suốt thời gian qua, với các loại hình tổ chức tín dụng hoạt động đa dạng. Từ 57 chi nhánh tổ chức tín dụng, 242 phòng giao dịch cùng với 469 ATM và 4.238 POS vào năm 2011, đến nay, toàn thành phố đã có 61 chi nhánh tổ chức tín dụng với đa dạng các loại hình ngân hàng (14 chi nhánh ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước và cổ phần Nhà nước chi phối, 36 chi nhánh NHTM cổ phần, 02 chi nhánh NHTM liên doanh, 05 chi nhánh NHTM 100% vốn nước ngoài, 01 chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), 03 công ty tài chính), 249 phòng giao dịch cùng với 552 ATM và 7.636 POS phủ sóng khắp các quận, huyện. Số lượng các điểm giao dịch ngân hàng liên tục được mở rộng, trải khắp địa bàn tạo điều kiện đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn, dịch vụ ngân hàng cho doanh nghiệp, người dân. Với đặc thù Đà Nẵng là thành phố đô thị trực thuộc Trung ương nên các điểm giao dịch ngân hàng tập trung chủ yếu ở các quận nội thành. Tại huyện Hòa Vang với 09 xã là địa bàn nông thôn của thành phố có khoảng 10 điểm giao dịch ngân hàng và 20 ATM đang hoạt động, cơ bản đáp ứng các nhu cầu vốn và dịch vụ ngân hàng cho người dân trong điều kiện còn khó khăn hơn so với khu vực thành thị.

Trong thời gian tới, bám sát định hướng của NHNN về phát triển kênh phân phối dịch vụ ngân hàng, NHNN Chi nhánh TP. Đà Nẵng tiếp tục sắp xếp, phát triển mạng lưới các điểm giao dịch ngân hàng trên địa bàn, khuyến khích các ngân hàng, tổ chức khác đầu tư và mở rộng mạng lưới đến khu vực nông thôn, vùng khó khăn, đảm bảo đáp ứng và tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho khu vực này. Bên cạnh đó, đẩy mạnh việc cơ cấu lại các tổ chức tín dụng theo các đề án, phương án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, đảm bảo các tổ chức tín dụng hoạt động ổn định, an toàn, lành mạnh, không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ nhằm đảm bảo vừa tăng khả năng tiếp cận sử dụng dịch vụ, vừa đảm bảo cho người dân, doanh nghiệp được sử dụng dịch vụ tốt, chất lượng cao.

Thứ hai, phát triển đa dạng các dịch vụ ngân hàng trên nền tảng ứng dụng công nghệ hiện đại, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho các đối tượng mục tiêu của TCTD được tiếp cận và sử dụng dịch vụ TTKDTM.

Các dịch vụ ngân hàng hiện đại phát triển gắn liền với xu hướng phát triển ngân hàng số và chủ động tham gia vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đó, cáctổ chức tín dụng trên địa bàn đã nghiên cứu, ứng dụng nhiều giải pháp, công nghệ hiện đại áp dụng vào hoạt động thanh toán trên Internet, thiết bị di động... và gần đây, phát triển thêm dịch vụ ngân hàng số trên điện thoại di động.

Từ khi triển khai thực hiện Đề án “Nâng cao nhận thức và phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ các dịch vụ TTKDTM trên địa bàn TP. Đà Nẵng” được UBND thành phố phê duyệt, hoạt động TTKDTM trên địa bàn TP. Ðà Nẵng trong những năm qua đã có những bước tiến đáng kể, số lượng giao dịch thanh toán qua ngân hàng không ngừng tăng, thanh toán các hóa đơn dịch vụ công, chi trả bảo hiểm xã hội, lương hưu,... đều được thực hiện qua hệ thống ngân hàng. Các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn TP. Đà Nẵng đã nhận thức được xu hướng phát triển TTKDTM và xem đây là một mảng kinh doanh quan trọng bên cạnh hoạt động tín dụng, song hành với việc thực hiện mục tiêu của Chiến lược TCTD quốc gia theo chủ trương của NHNN đề ra.

Năm 2020 đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ, vượt bậc của hoạt động TTKDTM tại Đà Nẵng cả về quy mô loại hình giao dịch, nổi bật nhất là thanh toán trực tuyến mà ngân hàng số là nền tảng hỗ trợ cơ bản, cụ thể như sau:

- Cơ sở hạ tầng và công nghệ được chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Hệ thống ATM, POS tiếp tục hoạt động ổn định, được các ngân hàng quan tâm đầu tư và nâng cao chất lượng dịch vụ. Đến cuối năm 2020, toàn địa bàn có 552 ATM và 7.636 POS được lắp đặt tại hầu hết các cơ sở, chuỗi phân phối, bán lẻ, khách sạn lớn, các đơn vị cung cấp dịch vụ công; giá trị giao dịch qua ATM đạt 43.630 tỷ đồng, qua POS đạt 9.554 tỷ đồng; số lượng thẻ đang hoạt động trên địa bàn đạt 483,5 ngàn thẻ, doanh số giao dịch qua thẻ đạt 43.600 tỷ đồng.

- Nhờ việc các ngân hàng tích cực chuyển đổi số, đa dạng các hình thức quảng bá sản phẩm dịch vụ mà hoạt động ngân hàng số, phát triển TTKDTM trên địa bàn TP. Đà Nẵng đã có những chuyển biến tích cực: Năm 2020, giá trị TTKDTM toàn địa bàn đạt 415.806 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 60,37% trong tổng giá trị thanh toán. Trên địa bàn Thành phố hiện có 51 chi nhánh NHTM triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet (với giá trị giao dịch đạt 140.088 tỷ đồng, tăng 22,88% so với cùng kỳ năm 2019), 47 chi nhánh NHTM triển khai dịch vụ thanh toán qua Mobile Banking (với giá trị giao dịch đạt 222.534 tỷ đồng, tăng 189,76% so với cùng kỳ năm 2019). Một số NHTM[1] đã triển khai mở tài khoản bằng phương thức điện tử với số lượng tài khoản mở thành công tính đến 31/3/2021 là 10.553 tài khoản. Ngoài ra, các NHTM trên địa bàn cũng tích cực phối hợp với các đơn vị bán lẻ để triển khai kết nối thanh toán QR code theo Quyết định số 1928/QĐ-NHNN ngày 05/10/2018 của Thống đốc NHNN quy định về tiêu chuẩn cơ sở “Đặc tả kỹ thuật QR Code hiển thị từ phí đơn vị chấp nhận thanh toán tại Việt Nam”, phối hợp với các công ty trung gian thanh toán để triển khai thanh toán qua ví điện tử: trên địa bàn có 31 chi nhánh NHTM triển khai dịch vụ QR code với 148.211 món, giá trị giao dịch đạt 350 tỷ đồng, tăng 25 lần với giá trị giao dịch năm 2018; giao dịch qua ví điện tử năm 2020 là 296.611 món và giá trị giao dịch đạt 895 tỷ đồng.

- Trong thanh toán dịch vụ công, các đơn vị cung ứng dịch vụ công đã tích cực vào cuộc phối hợp triển khai thực hiện, xây dựng cơ sở dữ liệu và hạ tầng công nghệ thông tin để đồng bộ với ngành Ngân hàng. Nhờ đó các giao dịch thanh toán hóa đơn tiền điện, nước, viễn thông,... dần dần được thực hiện TTKDTM. Năm 2020, giao dịch nộp thuế qua ngân hàng đạt 98%; 100% khách hàng nộp tiền điện, 99% khách hàng nộp tiền nước qua ngân hàng và tổ chức trung gian thanh toán; có 90% trường học và 100% cơ sở y tế triển khai thu học phí, viện phí qua ngân hàng; tỷ lệ chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp qua hệ thống ngân hàng đạt tỷ lệ bình quân 79,1%, vượt 28,1% so với chỉ tiêu Bảo hiểm xã hội Việt Nam giao.

Để đảm bảo an toàn cho hệ thống thanh toán, NHNN đã tăng cường triển khai các giải pháp an ninh, an toàn và bảo mật hệ thống công nghệ thông tin, giảm thiểu rủi ro đối với hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng đã ứng dụng các công nghệ tiên tiến, giải pháp mới vào hoạt động thanh toán nhằm tăng tốc độ thanh toán, tăng cường an toàn, bảo mật dịch vụ, gia tăng trải nghiệm và sự hài lòng của khách hàng.

Với những kết quả tích cực của việc đẩy mạnh TTKDTM trong thời gian qua cho thấy hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ để phát triển các dịch vụ thanh toán hiện đại và việc đẩy mạnh công tác truyền thông giúp người dân nắm bắt được những tiện ích của TTKDTM. Ngày nay, xu hướng sử dụng ngày càng phổ biến hơn, các phương tiện TTKDTM của người dân trong chi tiêu, tiêu dùng, đi lại, vui chơi giải trí qua các trang thương mại điện tử cho thấy việc mở tài khoản tại các NHTM có tầm quan trọng, là yếu tố nền tảng đẩy lùi rào cản thói quen sử dụng tiền mặt trong đại bộ phận dân cư, tiến tới mở rộng và phát triển TTKDTM. Đây là cơ sở quan trọng để mở rộng và phát triển TCTD trong giai đoạn 2020 - 2025, đảm bảo thực hiện các mục tiêu về số lượng khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng, tăng trưởng tiền gửi tiết kiệm, phổ cập một số dịch vụ cơ bản, thiết yếu đối với đối tượng khách hàng vùng nông thôn, vùng khó khăn và mang lại mục tiêu tổng thể của TCTD trên địa bàn.

Thứ ba, phát triển tín dụng nông nghiệp, nông thôn, tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, tín dụng chính sách xã hội để tăng cường tiếp cận tín dụng cho các đối tượng mục tiêu của TCTD.

Tín dụng trên địa bàn TP. Đà Nẵng luôn duy trì tốc độ tăng trưởng tích cực, đáp ứng tốt nhất nhu cầu tín dụng để phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân. Giai đoạn 2015 - 2020, tín dụng trên địa bàn đạt mức tăng trưởng ấn tượng 20,2%/năm. Đến tháng 6/2021, dư nợ tín dụng đạt 191.230 tỷ đồng. Nợ xấu luôn được kiểm soát ở mức thấp hơn 3% theo chủ trương của NHNN. Cơ cấu tín dụng tập trung vào sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên, một số chương trình mục tiêu của TP. Đà Nẵng như cho vay phát triển thủy sản; cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; cho vay xây dựng nông thôn mới; cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa; cho vay nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; cho vay đối tượng chính sách,...

Chương trình tín dụng nông nghiệp và phát triển nông thôn luôn duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định trong suốt thời gian vừa qua, cơ bản đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ nông dân khu vực ngoại thành phát triển tạo ra những sản phẩm nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao... Nhiều chương trình tín dụng đặc thù trong lĩnh vực nông nghiệp như cho vay hỗ trợ lãi suất để tăng cường cơ giới hóa và giảm tổn thất trong nông nghiệp, cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch...; kịp thời thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh... đã phát huy hiệu quả tích cực trong việc phát triển tín dụng khu vực nông thôn, qua đó phấn đấu hoàn thành các mục tiêu mà Chiến lược TCTD quốc gia đã đề ra. Đến tháng 6/2021, dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn đạt 10.029 tỷ đồng (tăng 19,44% so với cuối năm 2019) cho 42.608 khách hàng nông dân, doanh nghiệp khu vực nông thôn, chiếm tỷ lệ 5,24% tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn; dư nợ cho vay xây dựng nông thôn mới đạt 4.806 tỷ đồng (tăng 39,02% so với cuối năm 2019) cho 19.793 khách hàng, chiếm tỷ lệ 2,51% tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn. Trong đó, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giữ vai trò chủ lực và dẫn đầu hệ thống trong việc triển khai chương trình với dư nợ đạt 1.206 tỷ đồng, chiếm 25,09% trên tổng dư nợ nông thôn mới với 2.381 hộ dân.

Một thực tế rằng, việc vay vốn ngân hàng giúp người nghèo, người nông dân giảm thiểu rủi ro trong cuộc sống như ốm đau, bệnh tật, mất mùa, thiên tai, tránh được vòng luẩn quẩn khi phải đi vay ở khu vực không chính thức với lãi suất cao, tạo gánh nặng trả nợ về sau. Thế nhưng, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn còn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ, mục tiêu thực hiện Chiến lược TCTD mà TP. Đà Nẵng đề ra là tăng tỷ trọng này lên 7%, dư nợ cho vay lĩnh vực này chủ yếu ở các NHTM Nhà nước còn các NHTM cổ phần thì khá thấp. Điều này cho thấy, có những rào cản khiến TCTD chưa triển khai rộng rãi đến với người nghèo ở khu vực nông thôn, có thể kể đến là: Sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro do chịu nhiều ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh; sản xuất nông nghiệp hiện nay vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ; sản xuất theo chuỗi giá trị chưa được tổ chức và phát triển hợp lý; các mô hình liên kết còn ít, chưa hiệu quả; thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thiếu ổn định, tình trạng mất cân đối cung cầu, được mùa mất giá vẫn thường diễn ra, ảnh hưởng nhiều đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng; lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cần vốn đầu tư rất lớn nhưng lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp chưa cao như kỳ vọng cũng là một rào cản lớn khiến nhiều doanh nghiệp và hộ gia đình còn e ngại khi xác định đầu tư lâu dài cho nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao.

Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp ngày càng đi vào chiều sâu đem lại hiệu quả tích cực nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và hỗ trợ thị trường.Cho đến nay, hoạt động này đã trải qua thực tiễn với nhiều sự thay đổi từ nội dung cho đến cách thức thực hiện để phù hợp với những diễn biến kinh tế vĩ mô, tình hình hoạt động doanh nghiệp trên địa bàn trong môi trường cạnh tranh và đổi mới không ngừng. Từ giai đoạn đầu phối hợp với chính quyền các cấp, sở, ban ngành, các hiệp hội, ban quản lý trên địa bàn nắm bắt nút thắt của doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn, cho vay theo gói hỗ trợ doanh nghiệp. Giai đoạn tiếp theo ngoài tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng, còn phối hợp với cơ quan thi hành án, tòa án tháo gỡ khó khăn cho việc xử lý nợ của các tổ chức tín dụng. Đến giai đoạn hiện nay, Chương trình kết nối đi vào chiều sâu, hướng đến sự hiệu quả, thiết thực như: (i) Doanh số giải ngân cho vay mới đến tháng 6/2021 là 2.138 tỷ đồng, cho hơn gần 500 doanh nghiệp với dư nợ hơn gần 2.500 tỷ đồng; (ii) Chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiếp tục đổi mới quy trình, rút ngắn thời gian giải quyết cho vay theo hướng bãi bỏ các thủ tục hành chính không phù hợp, nâng cao khả năng thẩm định, giải quyết nhu cầu vay vốn cho doanh nghiệp nhanh, gọn song vẫn đảm bảo an toàn vốn vay; đồng thời, cắt giảm các khoản phí, chi phí không cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, kinh doanh. Các ngân hàng đã cam kết giảm lãi suất và phí 510 triệu cho 27 doanh nghiệp trong chương trình.

Tín dụng chính sách mang lại hiệu quả về bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn và tạo nguồn lực, điều kiện cho người nghèo, người có thu nhập thấp cải thiện cuộc sống, phát triển bền vững. Từ 03 chương trình tín dụng ban đầu, đến nay, NHCSXH đã và đang triển khai thực hiện 20 chương trình tín dụng chính sách do các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước uỷ thác thực hiện, mạng lưới hoạt động của NHCSXH đã phủ khắp các quận, huyện trên địa bàn với 63 điểm giao dịch tại các xã, phường. Tín dụng chính sách xã hội đã được triển khai đến 100% xã trên địa bàn thành phố. Đến cuối năm 2020, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt 2.859 tỷ đồng (tăng 19,22% so với cuối năm 2019), cho vay 26.498 lượt khách hàng vay vốn, góp phần giúp 3.033 hộ vượt qua ngưỡng nghèo, thu hút tạo việc làm cho 18.623 lao động, 804 học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập,...

Thứ tư, phát triển hệ thống tổ chức tài chính vi mô để tăng cường điều kiện tiếp cận dịch vụ tài chính cho các đối tượng mục tiêu của TCTD.

Việc tiếp tục phát triển hệ thống các tổ chức tài chính vi mô cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy TCTD trên địa bàn TP. Đà Nẵng. Trong những năm qua, các tổ chức tài chính vi mô cùng các chương trình, dự án tài chính vi mô đã đóng góp thêm một kênh cung cấp các loại hình dịch vụ và sản phẩm tài chính cho cộng đồng người nghèo, người cận nghèo, giúp họ cải thiện đời sống, phát triển kinh tế và đóng góp cho xã hội. Mặc dù vốn vay của tài chính vi mô là các khoản nhỏ, nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi những khoản vay này đến được với người nghèo và cận nghèo đúng thời điểm, giúp họ khởi tạo sản xuất kinh doanh, tạo dựng tài sản, ổn định cuộc sống và từng bước thoát khỏi tình trạng đói nghèo.

Đến cuối năm 2020, trên địa bàn TP. Đà Nẵng có 02 chương trình, dự án tài chính vi mô được triển khai hoạt động thông qua Quỹ trợ vốn Liên đoàn lao động và Quỹ Hỗ trợ Phụ nữ phát triển. Với những ưu đãi đề ra về lãi suất, thời hạn vay, mức cho vay, các chương trình, dự án vi mô đã mang đến cho các đối tượng yếu thế của TCTD tiếp cận hai sản phẩm dịch vụ tài chính cơ bản là tiền gửi và tiền vay với kết quả đáng ghi nhận. Bên cạnh vốn được cấp, Quỹ trợ vốn Liên đoàn Lao động huy động được 4,49 tỷ đồng, cho vay được 14,22 tỷ đồng; Quỹ Hỗ trợ Phụ nữ phát triển huy động được 10,67 tỷ đồng, cho vay được 18,2 tỷ đồng.

2. Một số giải pháp để thúc đẩy phát triển TCTD trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Một là, NHNN tiếp tục điều hành tín dụng phù hợp với chỉ tiêu định hướng, ưu tiên tập trung nguồn vốn cho nhu cầu sản xuất kinh, doanh của người dân. Tiếp tục thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, nhằm nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng, góp phần ngăn chặn tín dụng đen.

Hai là, tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến các chính sách về tín dụng nông nghiệp, nông thôn, các chương trình tín dụng chính sách để truyền tải vốn đến người dân, doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất.

Ba là, tạo cơ chế huy động nguồn và chính sách tín dụng đặc thù để các tổ chức tín dụng tham gia phục vụ những đối tượng mục tiêu của Chiến lược TCTD quốc gia, đặc biệt là người thu nhập thấp, người nghèo ở vùng nông thôn, vùng khó khăn. Khuyến khích các ngân hàng cải thiện chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm và phát triển chính sách phân phối dịch vụ hiệu quả, xây dựng kế hoạch kinh doanh cụ thể cho nhóm khách hàng này theo hướng giảm thiểu thủ tục và rút gọn thời gian giao dịch, đồng thời nâng cao việc khai thác, sử dụng hệ thống thông tin về quản lý khách hàng để phục vụ tốt hơn các nhu cầu hiện có và khai thác, phục vụ nhu cầu mới của khách hàng.

Bốn là, sớm hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cho phép chia sẻ, liên kết, kết nối các ngành dịch vụ như ngân hàng, viễn thông, bảo hiểm,... để các đơn vị có thể truy cập và khai thác dữ liệu một cách hiệu quả, nhanh chóng và tiết kiệm. Đồng thời xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan về bảo mật dữ liệu người dùng, an ninh, an toàn thông tin nhằm tạo dựng môi trường giao dịch số an toàn và tin cậy.

Năm là, tích cực triển khai thực hiện Chương trình chuyển đổi số quốc gia trên địa bàn Thành phố, trong đó, chú trọng việc đẩy nhanh tốc độ triển khai dịch vụ Mobile-Money để phổ cập thanh toán không dùng tiền mặt đến đại bộ phận tầng lớp dân cư. Các tài khoản viễn thông sẽ góp phần tăng cường việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính - ngân hàng, đặc biệt tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa cho các đối tượng yếu thế trong xã hội.

Sáu là, phát triển đa dạng hệ thống đại lý bán hàng - cánh tay nối dài của ngân hàng, xây dựng mô hình cộng tác giữa ngân hàng với các đại lý bán lẻ phi ngân hàng như bưu điện, trạm xăng, mạng lưới viễn thông, siêu thị, điểm bán hàng,... để cung cấp dịch vụ tài chính ở những nơi không có điểm giao dịch ngân hàng. Có cơ chế khuyến khích các ngân hàng phát triển TCTD thông qua việc mở rộng đối tượng khách hàng và hệ thống chi nhánh, phòng giao dịch ở vùng nông thôn. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến những ngân hàng có mạng lưới chi nhánh lớn tại khu vực nông thôn như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt, NHCSXH,...

Bảy là, đẩy mạnh công tác giáo dục tài chính để nâng cao nhận thức cũng như kỹ năng tài chính của người dân. Giáo dục tài chính sẽ giúp phát triển kỹ năng hiểu biết tài chính và kiến thức bảo vệ người tiêu dùng tài chính. Qua đó, giúp người dân hiểu được lợi ích của các sản phẩm tài chính trong việc cải thiện và nâng cao cuộc sống của cá nhân cũng như hộ gia đình.

Tám là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức quảng bá trực tuyến về thực hiện Chiến lược TCTD quốc gia trên địa bàn Thành phố, đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người dân trên địa bàn về vai trò và ý nghĩa của TCTD, tình hình thực hiện các mục tiêu TCTD của cả nước và TP. Đà Nẵng. Tăng cường công tác tuyên truyền để giúp người dân thay đổi thói quen cất giữ tiền tại nhà, để người dân hiểu và thấy được lợi ích của TCTD mang lại, qua đó nâng cao nhận thức, sự hiểu biết, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính trong thời gian sớm nhất.

Phát triển TCTD với lộ trình cụ thể hướng tới sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành cùng với sự đoàn kết, nhất trí cao của toàn Đảng, toàn dân. Từ những kết quả đạt được như trên, gắn liền với việc thực hiện các yếu tố nền tảng để mở rộng TCTD trên địa bàn, cùng với việc thực hiện hiệu quả các chương trình tín dụng của Chính phủ, của UBND TP. Đà Nẵng và của NHNN, với việc tiếp tục đổi mới tư duy lấy khách hàng làm trung tâm sẽ là những giải pháp và phương thức tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển TCTD của hệ thống ngân hàng trên địa bàn TP. Đà Nẵng, đảm bảo đúng kế hoạch và mục tiêu đề ra vào năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030./.

                                                     Mỹ Hạnh – NHNN TP Đà Nẵng

 


[1]Vietinbank, BIDV, Vietabank, VietCapital Bank, VPBank, Shinhanbank.